Chuyên gia Đức: Kinh tế Việt Nam sẽ bật dậy nhanh sau Covid-19

04:20 | 07/04/2020
Những chính sách kinh tế gần đây của Việt Nam dường như sẽ hữu hiệu đối với nền kinh tế.
Chuyên gia Đức: Kinh tế Việt Nam sẽ bật dậy nhanh sau Covid-19

GS. TS Andreas Stoffers, Giám đốc Quốc gia Viện Friedrich Naumann Foundation for Freedom, Hanoi.

Sau suy thoái kinh tế năm 2008, một số cá nhân dường như đã quên rằng, các cuộc khủng hoảng kinh tế vẫn luôn có nguy cơ xảy ra và không quá bất ngờ về điều đó. Tại quá khứ, trong những biến động về kinh tế sẽ có cả người thắng và kẻ thua. Tuy nhiên, thắng hay thua phụ thuộc vào việc các quốc gia đối diện như thế nào với những khó khăn và những chính sách kinh tế nào sẽ được đưa ra. Vừa qua, Việt Nam đã đưa ra những động thái khá thú vị để giải quyết các vấn đề kinh tế trong đại dịch Covid-19. Liệu cách thức của Việt Nam có thể trở thành một hình mẫu cho các quốc gia?

Trước tiên, Chính phủ Việt Nam đã phản ứng với đại dịch toàn cầu Covid-19 rất nhanh và quyết liệt. Các trường học đóng cửa, các sự kiện với đông người tham gia cũng bị hủy bỏ, người dân được nhắc nhớ thường xuyên về việc phải cẩn thận, cửa khẩu cũng từng bị đóng và hạn chế người di chuyển.

Tuy nhiên, tại Việt Nam, Chính phủ không cho thấy dấu hiệu của sự hoảng loạn như cách mà châu Âu đang phản ứng. Sau khi phớt lờ sự nguy hiểm của dịch bệnh, những hành động không hợp lý của các Chính phủ châu Âu bắt đầu xuất hiện. Hơn thế nữa, do các chính sách nghèo nàn của Ngân hàng Trung ương châu Âu trong những năm gần đây, họ khó có thể đưa ra những công cụ tiền tệ cần thiết trong thời điểm này. Tại Việt Nam, tình hình lại diễn biến khác.

Những chính sách kinh tế gần đây của Việt Nam dường như sẽ hữu hiệu đối với nền kinh tế. Thứ nhất, Chính phủ tung gói tín dụng 250.000 tỷ đồng, gói hỗ trợ tài khóa 30.000 tỷ đồng. Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước hạ lãi suất tái cấp vốn giảm từ 6,0%/năm xuống 5,0%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 4,0%/năm xuống 3,5%/năm. Thứ ba, Bộ Tài chính cũng đề xuất một vài công cụ kinh tế liên quan đến miễn giảm và gia hạn thuế, phí.

Trước hết có thể nói rằng, gói hỗ trợ tín dụng tiềm ẩn ít nguy cơ liên quan đến lạm phát, bởi lẽ 250.000 tỷ đồng không phải, hoặc có ít, nguồn cung tiền mới được bơm ra thị trường, khoản tiền này sẽ dùng để gia hạn các khoản vay, giảm hoặc gỡ bỏ lãi suất, giảm các chi phí giao dịch…. Nói cách khác, khoản tiền sẽ nhằm mục đích “bôi trơn” để giúp các bánh răng trong nền kinh tế - các công ty vận hành. Mặc dù, nguồn lợi nhuận của các ngân hàng có thể giảm nhưng ít nhất thì họ cũng duy trì được tính thanh khoản.

Bên cạnh đó, gói 30.000 tỷ cũng ít có khả năng gây ra lạm phát bởi lẽ mục đích của khoản này là để giảm thuế hoặc giãn thời gian trả thuế và giúp các doanh nghiệp duy trình tính thanh khoản trong tài chính của họ. Tuy nhiên, với cả hai gói hỗ trợ, điều quan trọng nhất là đảm bảo thành phần tham gia biết cách thức các gói hoạt động và làm rõ ràng những đơn vị cần được ưu tiên sử dụng công cụ hỗ trợ.

Hiển nhiên, khi nguồn  lực có hạn thì không nên dùng đại trà trên tất cả các thành phần tham gia. Đồng thời, đảm bảo nguồn tiền được sử dụng cẩn thận, tránh các rủi ro về lạm phát và lấy đi các nguồn chi trả cho chính sách tài khóa từ tay Chính phủ. Không ai biết trước được đại dịch sẽ kéo dài trong bao lâu. Những phản ứng tài khóa tức thời sẽ trở nên ngày càng quan trọng và điều đó yêu cầu nguồn lực bền vững.

Nguồn: VOV