Bốn nghị quyết đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới
Hội nghị quán triệt Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 diễn ra ngày 18/5.
Ngày 18 tháng 5 vừa qua, tại Hà Nội, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức Hội nghị toàn quốc theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến để quán triệt và triển khai thực hiện: Nghị quyết 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (Nghị quyết 66); và (II) Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết 68).
Tại Hội nghị này, Thủ tướng Phạm Minh Chính trình bày chuyên đề về những nội dung cốt lõi của Nghị quyết 68; Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn trình bày chuyên đề về những nội dung trọng tâm và cốt lõi của Nghị quyết 66. Ngoài hai nghị quyết này, trong bài trình bày của mình, Thủ tướng Phạm Minh Chính còn đề cập đến hai nghị quyết nữa, gồm: Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sang tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57); và, Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới (Nghị quyết 59).
Phát biểu tại Hội nghị, Tổng Bí thư Tô Lâm đã phân tích toàn diện cả bốn nghị quyết trên và gọi bốn nghị quyết này là “Bộ tứ trụ cột” để nước ta cất cánh.
Bối cảnh đất nước ra đời “Bộ tứ trụ cột” nghị quyết
Từ sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 10 được tổ chức vào tháng 9 năm 2024 cho đến nay, đất nước ta có những chuyển biến sâu sắc, toàn diện trên tất cả các mặt, đặc biệt là những chuyển biến về tư duy, nhận thức, ý chí và hành động chính trị mà sẽ có ảnh hưởng và tác động đến con đường phát triển của đất nước và sự nghiệp chấn hưng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không chỉ trong 5 hay 10 năm tới mà là 20 năm và xa hơn nữa. “Bộ tứ trụ cột” được ban hành trong khoảng thời gian này với 5 đặc điểm nổi bật sau. Thứ nhất, cả nước với quyết tâm và ý chí cao bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển, thịnh vượng và hùng cường của dân tộc với hai mốc mục tiêu phát triển thiên niên kỷ hướng tới là 2030 nhân 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và 2045 nhân 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), được xác định tại Đại hội XIII của Đảng năm 2021.
Thứ hai, để đạt được hai mục tiêu phát triển thiên niên kỷ trên, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm đã rất quyết liệt triển khai nhiều cải cách chính trị và đổi mới hệ thống quản trị quốc gia. Đó là tinh giản và đã sắp xếp lại xong bộ máy Đảng, Nhà nước và Quốc hội, từ trung ương đến địa phương; đó là sắp xếp và đang triển khai tổ chức lại chính quyền địa phương theo hướng hai cấp để nhằm phục vụ người dân tốt hơn; và tiếp nữa là sắp xếp và tinh gọn hệ thống các tổ chức đoàn thể xã hội trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Thứ ba, Đảng khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc gia. Kinh tế tư nhân giờ đây được xác định là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.
Thứ tư, Đảng xác định khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo không chỉ là phương thức và công cụ sản xuất mới mà với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo khoa học-công nghệ giờ đây còn trở thành lực lượng sản xuất mới. Trong bối cảnh trình độ phát triển của nước ta đã đạt đến tầm trung và đến ngưỡng bão hòa, cần phải có hướng đi mới để thoát bẫy thu nhập trung bình, việc nắm bắt và ứng dụng sự tiên tiến của khoa học-công nghệ, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, cơ sở dữ liệu lớn, công nghệ lõi, chip bán dẫn, v.v…là bước đột phá để đưa kinh tế nước ta trước hết là thoát bẫy thu nhập trung bình và hơn nữa là cất cánh phát triển cao hơn.
Thứ năm, Đảng xác định sự phát triển của đất nước ta không thể tách dời với hội nhập khu vực và thế giới, đồng thời khi đã phát triển thì chúng ta cũng cần thể hiện vai trò có trách nhiệm cao hơn với cộng đồng thế giới, trong định hình luật chơi và dẫn dắt cuộc chơi, thể hiện trách nhiệm với ngôi nhà chung và nền văn minh chung của nhân loại. Vì thế, Đảng xác định vai trò cao hơn của công tác hội nhập quốc tế, của đối ngoại và ngoại giao.
Nếu xem 5 đặc điểm trên là vấn đề nhận thức, tầm nhìn và tư duy, thì cần phải có hành động để hiện thực hóa. Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng nghị quyết và chỉ thị. Vì thế, việc Đảng ban hành liên tiếp các nghị quyết 57, 59, 66 và 68 chính là cụ thể hóa sự lãnh đạo của Đảng nhằm hiện thực hóa 5 điểm trên. Từ những nghị quyết này, Quốc hội và Chính phủ sẽ thông qua những nghị quyết và ban hành kế hoạch hành động cụ thể để triển khai thực hiện đồng bộ và hiệu quả. Với ý nghĩa đó, Tổng Bí thư Tô Lâm gọi 4 nghị quyết này là “Bộ tứ trụ cột” là muốn nhấn mạnh rằng đây là những văn bản lãnh đạo và chỉ đạo cốt lõi, cao nhất, mang tính bao trùm và toàn diện để hiện thực hóa khát vọng phát triển thịnh vượng và hùng cường của dân tộc trong kỷ nguyên mới.
Điểm đột phá chung của 4 nghị quyết
Có thể nhận thấy rằng điểm đột phá chung của cả 4 nghị quyết này là mang tính hành động, chứ không thuần túy là khẩu hiệu, trong đó biểu hiện rõ nhất là sự đổi mới về tư duy và nhận thức. Ví dụ về Nghị quyết 57. Không phải bây giờ chúng ta mới nói đến vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nhưng lần này, điểm khác biệt là chúng ta đổi mới về nhận thức và cách thức vận dụng và khai thác sự phát triển và tiên tiến của khoa học-công nghệ phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, đồng thời phát huy khoa học-công nghệ để đưa nước ta cất cánh và phát triển lên tầm cao hơn. Do đó, trong các nghị quyết lần này, ngoài vấn đề lý luận thể hiện khía cạnh tư duy và tầm nhìn thì còn những chỉ đạo hành động rất cụ thể. Tương tự với các nghị quyết 59 về chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng; nghị quyết 68 về phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân; và nghị quyết 66 về đổi mới toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật.
Chúng ta nói đổi mới trước hết là đổi mới về tư duy và nhận thức, và lần đổi mới tư duy này là bước chuyển hết sức mạnh mẽ và quyết liệt chưa từng có kể từ khi thành lập Đảng và thành lập nước cho đến nay. Ví dụ trước hết là việc thừa nhận vai trò của kinh tế tư nhân. Nhận thức về kinh tế tư nhân vốn lâu nay chưa được phù hợp, được cho là một hình thức kinh tế tư bản. Nhưng giờ nhận thức về kinh tế tư nhân đã thay đổi. Theo đó, kinh tế tư nhân vừa có thế, vừa có tầm. Thế là được coi ngang bằng với các thành phần kinh tế khác, kể cả với kinh tế nhà nước – điều này cực kỳ quan trọng và ý nghĩa trong thể chế do ĐCS cầm quyền. Tầm là được ghi nhận là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Chính Mác cũng thừa nhận vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân, xem đó là sự phát triển kinh tế phù hợp thực tiễn và sự vận động khách quan của cấu trúc thành phần xã hội.
Sự chuyển biến nhận thức này trước hết xuất phát từ chính nhu cầu phát triển nội tại của chúng ta, của đất nước chúng ta sau gần 40 năm đổi mới. Khi chúng ta đã phát triển đến một ngưỡng nào đó thì nó đòi hỏi chúng ta phải thay đổi để phát triển hơn nữa, nếu không thì dậm chân tại chỗ và “trâu chậm uống nước đục” như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh trọng bài phát biểu của mình. Thứ hai, nó xuất phát từ những biến chuyển của khu vực và thế giới. Những biến chuyển này diễn ra cả ở khía cạnh chính trị, ngoại giao, khoa học và công nghệ. Sau gần 40 năm đổi mới, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao sâu rộng với 194 quốc gia; tham gia nhiểu cơ chế và diễn đàn quốc tế; ký kết và đang triển khai thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương; hòa nhập sâu và giữ vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Vì thế, mỗi chuyển biến trong môi trường quốc tế hiện nay đều lập tức tác động tới nền kinh tế, môi trường, thậm chí là an ninh và quốc phòng của chúng ta. Trong điều kiện như vậy, chúng ta không thể không thay đổi tư duy để bắt kịp với thời đại, để nắm bắt cơ hội phục vụ đất nước phát triển.
Cả 4 nghị quyết đều rất quan trọng và có sự ràng buộc và liên kết với nhau. Cái này bổ trợ và tiền đề cho cái kia vận động và phát triển. Thế nhưng, có thể cho rằng nghị quyết 68 có tác động và chi phối rất lớn so với các nghị quyết 57, 59 và 66 còn lại. Sở dĩ nghị quyết 68 có ý nghĩa như vậy vì vai trò đầu tàu của kinh tế tư nhân trong phát triển đất nước trong nhiều thập niên tới.
Nói một cách ngắn gọn, kinh tế tư nhân là khu vực quy tụ và là động lực thúc đẩy các lĩnh vực còn lại; là khu vực sẽ thúc đẩy phát triển khoa và công nghệ, tiên phong về đổi mới sáng tạo; là không gian để thử nghiệm những cái mới kể cả trong lĩnh vực nhạy cảm như an ninh và quốc phòng; là khu vực trực tiếp và thúc đẩy liên kết và hội nhập quốc tế; là khu vực tạo động lực cho đổi mới xây dựng và thực thi pháp luật. Hiệu quả và chất lượng pháp luật thể hiện rõ nhất ở khả năng điều chỉnh của nó với hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân. Chính vì kinh tế tư nhân với giá trị tự do của nó nên pháp luật có vai trò đảm bảo cho khu vực kinh tế này phát triển và vận hành lành mạnh.
Nhân nói về khu vực kinh tế tư nhân với tư cách là nguồn lực và động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, và rộng ra là sự phát triển của đất nước, chúng ta cần phát huy sức mạnh trí tuệ và nguồn lực kinh tế tư nhân của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Để làm được điều này, chúng ta cần làm tốt hơn nữa việc thúc đẩy hòa giải và hòa hợp dân tộc như chính Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết về vấn đề này và trong phát biểu tại Lễ kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước vừa qua. Sự cộng hưởng của sức mạnh trí tuệ và nguồn lực trong nước với sức mạnh trí tuệ và nguồn lực của hơn 5 triệu người Việt Nam ở nước ngoài sẽ tạo ra sức mạnh to lớn cho đất nước và cho dân tộc phát triển, tạo nền tảng bền vững hơn cho đất nước và dân tộc trên con đường phát triển hướng đến thịnh vượng và hùng cường.
Ý nghĩa của lãnh đạo trực tiếp truyền đạt nghị quyết
Kể từ sau Đại hội XIII cho đến nay, Bộ Chính trị đã có những đổi mới về cách làm nhằm đưa những nghị quyết về chủ trương và chính sách lớn của Đảng vào cuộc sống, trong đó nổi bật là việc tổ chức các hội nghị quán triệt toàn quốc một cách linh hoạt và chủ động thông qua kết hợp cả hình thức trực tiếp và trực tuyến để sao cho chủ trương, chính sách và thông điệp của Đảng đến được với cán bộ, đảng viên và người dân ở trong và ngoài nước được nhanh nhất và rõ nhất. Mục tiêu cao nhất là đảm bảo “dọc ngang thông suốt; trên dưới đồng lòng; nhất hô bá ứng.”
Đây là một sự đổi mới mạnh mẽ về cách thức truyền đạt thông tin, đặc biệt là thông tin từ những nghị quyết vốn khó tiếp thu vì ở tầm vĩ mô, để quảng đại người dân, trước hết là cán bộ, công chức nhà nước nắm vững để triển khai thực hiện. Người Việt Nam ở nước ngoài cũng có điều kiện tiếp thu nhanh hơn và hiểu rõ hơn về chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Việc các lãnh đạo cao nhất của Đảng, từ Tổng Bí thư, Thủ tướng đến Chủ tịch QH trực tiếp truyền đạt các nghị quyết qua các diễn đàn thế này có nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, nó thể hiện trách nhiệm cao nhất của người lãnh đạo đối với vấn đề phát triển của đất nước. Thứ hai, nó vừa là sự khích lệ, nhưng đồng thời tạo ra áp lực và là sự thôi thúc cán bộ, đảng viên phải thực hiện. Lãnh đạo cao nhất đã trực tiếp nói và truyền đạt, không lẽ gì mà cán bộ, đảng viên ngồi yên không làm?! Thứ ba, nó thể hiện phong cách lãnh đạo gần dân.
Nhân đây, mong rằng trong một tương lai gần, Bộ Chính trị và Chính phủ xem xét triển khai chương trình, ví dụ, Thủ tướng có bài phát biểu trực tiếp hàng tuần một lần trên sóng phát thanh hoặc truyền hình báo cáo cập nhật về tình hình phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước, hoặc những vấn đề, chủ đề thời sự nóng bỏng để người dân theo dõi. Việc Thủ tướng có báo cáo trực tiếp trên sóng phát thanh hay truyền hình một tuần một lần, trước hết, sẽ là cách thức tốt nhất để đưa Đảng, Nhà nước, Quốc hội và chính phủ đến gần và trực tiếp với người dân hơn. Mặt khác, nó thể hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ trước người dân và cử tri cả nước, và qua đây người dân có thể theo dõi và giám sát hoạt động của chính phủ, có tác dụng làm chính phủ phải hoạt động hiệu quả hơn. Đây cũng sẽ là một phương thức thực hiện dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mang sắc thái riêng của Việt Nam. Trong lịch sử một nhà nước xã hội chủ nghĩa do đảng cộng sản cầm quyền, chưa có một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nào mà ở đó áp dụng phương thức người đứng đầu chính phủ báo cáo trực tiếp hàng tuần với quốc dân đồng bào như vậy. Nếu thực hiện được điều này, cùng với việc triển khai hiệu quả “Bộ tứ trụ cột” nghị quyết ở trên, thì đây sẽ là một sự đổi mới và bước tiến mạnh mẽ, vững chắc hơn nữa trong xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân ở một chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa do đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển, thịnh vượng và hùng cường của dân tộc Việt Nam.
Các tin bài khác