Kiều bào và khát vọng định vị Việt Nam: Xây nhịp cầu văn học

00:45 | 27/09/2025
Với nỗ lực bền bỉ, nhà thơ, dịch giả Võ Thị Như Mai cũng như rất nhiều văn sĩ kiều bào ở các nước đang xây một nhịp cầu làm phong phú thêm diện mạo Việt Nam trên bản đồ văn chương toàn cầu.
Kiều bào và khát vọng định vị Việt Nam: Xây nhịp cầu văn học

Chị Võ Thị Như Mai tham dự tại Lễ hội văn chương ở Indonesia. (Ảnh NVCC)

Chị đánh giá thế nào về vai trò là cầu nối đưa văn hóa Việt ra thế giới của giới văn nghệ sĩ kiều bào?

Tôi tin rằng những văn nghệ sĩ kiều bào chính là “nhịp cầu mềm” đưa Việt Nam ra thế giới thông qua nghệ thuật và sáng tạo. Họ không chỉ làm lan tỏa giá trị văn hóa Việt đến cộng đồng sở tại một cách chân thực, gần gũi mà còn góp phần củng cố khối đại đoàn kết của cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

Tại nhiều diễn đàn, các đại biểu kiều bào đều khẳng định sức mạnh đoàn kết chính là nền tảng để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời nuôi dưỡng thế hệ trẻ tự tin hòa nhập mà không mất gốc.

Với sự am hiểu sâu sắc về ngôn ngữ, tập quán và tâm lý của cả hai bên, văn nghệ sĩ kiều bào có điều kiện thuận lợi để khơi dậy niềm tự hào văn hóa Việt, tạo nên những cầu nối cảm xúc giữa các thế hệ, giữa cộng đồng trong nước và kiều bào xa xứ. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng có vai trò mở ra những không gian văn hóa: sáng tác, dịch thuật, trình diễn, trưng bày nghệ thuật nhằm đưa hình ảnh Việt Nam đến gần hơn với bạn bè quốc tế, khơi dậy ý thức trách nhiệm và lòng tự hào dân tộc trong mỗi người con xa quê.

Nhìn chung, vai trò của văn nghệ sĩ kiều bào hôm nay không chỉ nằm ở việc sáng tác, biểu diễn, mà còn ở sứ mệnh truyền cảm hứng, giữ gìn và làm mới giá trị văn hóa Việt trong dòng chảy hội nhập.

Người ta thường nói “Một cây làm chẳng nên non” để huy động sức mạnh đồng lòng của kiều bào trong việc đóng góp xây dựng đất nước, cũng như quảng bá hình ảnh Việt Nam. Với lĩnh vực văn chương, chị có niềm tin về sự chung tay của đồng nghiệp ở các nước?

Không chỉ riêng tôi, có rất nhiều tấm gương tiêu biểu giàu tâm huyết với văn chương. Chẳng hạn như tác giả Quỳnh Iris Nguyễn – de Prelle tại châu Âu đã miệt mài tổ chức các lễ hội văn hóa Việt, trình diễn thơ tiếng Việt và quảng bá ngôn ngữ, văn hóa Việt tại cộng đồng sở tại cũng như các liên hoan quốc tế, khẳng định trách nhiệm và niềm tự hào của văn nghệ sĩ kiều bào.

Tại Canada, cuốn tiểu thuyết Thuyền (2025) của tác giả Nguyễn Đức Tùng đã thu hút nhiều độc giả khi can đảm khắc họa bi kịch thuyền nhân với chiều sâu nhân bản, đưa ký ức đau thương của một phần dân tộc trở về với dòng chảy văn học chính thống, góp phần hàn gắn và làm giàu thêm di sản tinh thần chung.

Hay nhà thơ Trương Anh Tú, sinh sống tại Đức, qua tập thơ Trắng mây tóc mẹ (NXB Kim Đồng ấn hành) đã thổi vào thơ thiếu nhi một hơi thở mới đậm chất nhạc, thấm đẫm tình mẫu tử, vừa mang hồn Việt vừa mở rộng tầm nhìn quốc tế.

Tương tự, nhà văn Kiều Bích Hương, tác giả gốc Việt sinh sống tại Bỉ đang nỗ lực khơi gợi nhịp cầu văn hóa giữa Việt Nam và thế giới qua bộ truyện tranh thiếu nhi Mật hiệu OGO, qua đó lan tỏa tình yêu tiếng Việt và niềm tự hào nguồn cội đến cộng đồng người Việt xa xứ.

Hồi tháng Sáu, Phong trào thơ ca thế giới (World Poetry Movement - WPM) đã tổ chức chương trình đọc thơ toàn cầu mang tên “Khúc ca tình yêu dành cho Gaza”. Việt Nam có sự góp mặt của nhà thơ Hữu Việt - Điều phối viên WPM tại Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam và tôi.

Tôi được giao tổng hợp toàn bộ chương trình này thành một video clip, sử dụng ca khúc Let’s sing for love (thơ Trương Anh Tú, lời tiếng Anh của tôi, nhạc Cung Minh Huân, ca sĩ Tuyết Mai) làm nhạc nền. Đây cũng là cơ hội quý báu để khẳng định thêm vị thế của thơ Việt trong không gian giao lưu thi ca toàn cầu, đồng thời nuôi dưỡng một tiếng nói nhân văn chung cho cộng đồng thi ca thế giới.

Vậy đâu là dự án thơ ca hoặc dịch thuật có ý nghĩa đặc biệt với chị trong thời điểm này?

Hiện tôi đang đảm nhận vai trò biên tập viên khách mời cho tuyển tập thơ quốc tế do tổ chức ISISAR tại Ấn Độ phát hành, quy tụ các nhà thơ đương đại Việt Nam và Ấn Độ.

Tôi trực tiếp thực hiện chuyển ngữ tiếng Anh cho tuyển tập này, góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa và kết nối thơ ca giữa hai quốc gia. Tuyển tập sẽ được xuất bản song ngữ Anh-Bengal nhằm mở rộng tầm ảnh hưởng và tiếp cận độc giả ở cả hai nước.

Ngoài ra, tôi vẫn đang tìm kiếm nhà xuất bản phù hợp cho tác phẩm Miệt vườn xa lắm của nhà văn Dạ Ngân, bởi để một tác phẩm lưu hành chính thức trên thị trường quốc tế, cần có sự hỗ trợ của môi giới văn học (literary agent). Đây là yếu tố then chốt, bởi nếu không có họ, việc đưa tác phẩm ra thế giới sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Kiều bào và khát vọng định vị Việt Nam (Kỳ II): Xây nhịp cầu văn học

Nhà thơ, dịch giả Võ Thị Như Mai.

Việt Nam ngày càng chú trọng quảng bá văn học ra thế giới. Là tác giả đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài, chị có đề xuất gì để hành trình này được hiệu quả và bền vững hơn?

Tôi nghĩ để việc quảng bá văn học Việt ra nước ngoài hiệu quả, bền vững, cần giữ tinh thần “cầu hiểu, không cầu hay” khi dịch thuật - tức là ưu tiên truyền tải nội dung một cách rõ ràng, dễ hiểu và trung thực hơn là chạy theo sự hoa mỹ cầu kỳ. Việc dịch nên phục vụ cho sự lan tỏa tri thức và văn hóa, giúp nhiều người có thể tiếp cận và cảm nhận được giá trị cốt lõi của văn học Việt.

Cùng với đó, việc lựa chọn tác phẩm để quảng bá cũng cần tính toán hợp lý, hợp ý, hợp thời, nghĩa là chọn những tác phẩm vừa mang giá trị văn hóa, vừa phù hợp với thị hiếu và xu hướng quốc tế, từ đó tăng khả năng thu hút độc giả toàn cầu.

Kinh nghiệm từ các mô hình cộng đồng cho thấy việc xây dựng mạng lưới dịch giả, cộng tác viên có tinh thần chia sẻ, cộng đồng là rất quan trọng để phát huy sức mạnh tập thể, góp phần đa dạng hóa và nâng cao chất lượng bản dịch.

Có thể ví von rằng, quảng bá văn học cũng giống như “bấm nút nồi cơm điện” cần một cơ chế nhanh, tiện lợi, song vẫn phải giữ được hồn cốt của từng hạt gạo. Văn học dù có được lan tỏa rộng rãi đến đâu, cũng không thể mất đi bản sắc và sự tinh tế vốn có.

Việc quảng bá văn học Việt ra thế giới đòi hỏi sự đầu tư bài bản và đồng bộ, không chỉ giới hạn ở dịch thuật mà còn bao gồm đào tạo dịch giả chuyên nghiệp, xây dựng kênh phân phối quốc tế, tham gia các hội chợ sách và tổ chức sự kiện văn hóa giao lưu quốc tế để tạo nên sức lan tỏa bền vững.

Đồng thời, ứng dụng công nghệ hiện đại như dịch máy, xuất bản điện tử và mạng xã hội sẽ giúp tối ưu hóa chi phí, nâng cao chất lượng truyền tải và đưa văn học Việt tiếp cận rộng rãi hơn với độc giả toàn cầu.

Bên cạnh đó, việc mở rộng hợp tác đa phương với các nhà xuất bản, tổ chức văn hóa quốc tế và cộng đồng người Việt ở nước ngoài là yếu tố then chốt để hình thành mạng lưới liên kết vững chắc, thúc đẩy các dự án văn học song ngữ và đa văn hóa.

Quan trọng nhất, trong quá trình quốc tế hóa, văn học Việt cần được bảo tồn trọn vẹn bản sắc và giá trị cốt lõi, tránh việc điều chỉnh quá mức nhằm phù hợp thị trường mà làm mất đi nét đặc sắc vốn có.

 

Nguồn: Thế giới & Việt Nam